Trang

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012


Vài cảm nhận khi đọc
 “TỪ VẦNG TRĂNG MƯỜI SÁU” của Cao Xuyên.*

Tôi đã từng là một “nông phu”, vì vậy đọc tập thơ của một “nông dân”, tôi thấy một chút gần gũi. Dù vậy qua tập thơ này tôi lại thấy chất “Sỹ phu” ngời lên trong từng ý thơ…Và tôi có 3 nguyên tắc thầm nhăc chính mình trong câu chuyện thơ này:
Một là: không xoa bóp tác giả như những cách thường gặp đâu đó trên tạp chí, sách báo lâu nay vì như thế với tính cách “sỹ phu” tác giả sẽ không cho phép, nên tôi quyết không như vậy, không bị câu thúc bởi bất cứ lý do gì, vì bợ đở phỉnh nịnh không khác một kẻ xài bạc giả -như một tác giả nào đó đã nói.
Hai không khen tác phẩm, bởi nhà thơ Trụ Vũ đã khen trong lời giới thiệu ở đầu sách, một lẻ khác tôi xin dẫn ra đây lời của một thi sỹ đời Tống-Lý Chi Lai” Ở đời có 3 việc đáng tiếc: Thứ nhất lớp thanh niên ưu tú bị hư hỏng bởi một chế độ giáo dục sai lầm; thứ 2 những cánh trà ngon bị hao phí quá nhiều vì những bàn tay bất tài vày vò; thứ 3 : Những tuyệt tác bị mất giá trị bởi những kẻ phàm phu tục tử tán thưởng…Mà tôi thì cũng chẳng khác gì đám phàm phu tục tử kia nên không dám khen láo.
Ba là phê bình ( ở một nghĩa nào đó) tôi không đủ vốn liếng chữ nghĩa và kỹ thuật để chẻ sợi tóc làm tư làm tám như các nhà chuyên môn vì vậy coi như tôi không làm điều này…
Ở đây tôi chỉ nói lên vài chút đồng cảm với tác giả trong một số tứ thơ mà thôi. Chắc trong chúng ta không ít người đã đọc: “ Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ…”( ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai) của cụ Tiên Điền, ở đây Cao Xuyên cũng thế không biết ngỏ cùng ai nên “ngỏ” bằng thơ- tôi nghĩ như thế, nhưng như mọi người đều biết ngoài chức năng “ minh đạo, tải đạo…”Thơ còn có một chức năng rất dễ thương là làm cầu…thật vậy nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết như thế này:
“ Thơ là chiếc cầu bơ vơ
“ Mà nghìn năm vẩn ngóng chờ người sang…”
Theo tôi nghĩ nó đúng với rất nhiều trường hợp là những bài thơ được sinh ra bởi những nhà thơ chân chính hay nói một cách hoa mỹ là “ có kim bản vị..”Thật vậy các tác phẩm đều muốn tận hiến, đều muốn làm một chiếc cầu nối liền đôi bờ thương mến giữa thơ - người thơ và người đọc thơ, người thơ luôn mong ngóng có người đi sang, được phục vụ vô điều kiện, ôi những bài thơ, những người thơ thật đáng yêu biết bao!, khi mỗi câu thơ là tâm tình hiến dâng ( Thơ Tagore) và tôi nghĩ Cao Xuyên cũng không ngoại lệ cũng muốn làm chiếc cầu nối đôi bờ đơn chiếc. Tập thơ “ Từ Vầng trăng mười sáu” dễ thương này ta có thể đọc xong trong bao lâu là tùy mỗi người, có thể đọc xong tập thơ trong vài chục phút, vài tiếng, vài ngày …hay vài tháng, nói theo từ ngữ chuyên môn là trong nó có chứa một hàm lượng thơ lớn và một khía cạnh nào đó nó cũng không dành cho đám đông, vì nó thường có double code (song mã), về hình thức cấu trúc bốn(4) câu có lẻ không mới so với thơ truyền thống, nhưng nội hàm nếu qui chiếu với trào lưu “hậu hiện đại” nó vẩn có phần…
Ta thử đọc một số bài trong 81 bài 4 câu:
-Giọt mồ hôi An Tiêm
Thắng trùng trùng bão tố
Giọt mồ hôi An Tiêm
Nhịp cầu dưa hấu đỏ.
Thật vậy giọt mồ hôi mặn chát của gã nông phu An Tiêm, hay giọt mồ hôi chát mặn của Hoàng tử An Tiêm khuất phục trùng trùng bão tố…hay chiến thắng chính mình để những quả dưa “xanh vỏ đỏ lòng” làm nhịp cầu thơm thảo nối đôi bờ tin yêu thương mến.
Thơ với ai đó có thể là một phương tiện hoặc họ đặt để cho thơ một cứu cánh nào đó, nhưng với Cao Xuyên tôi nghĩ trong đời sống của anh và từ “ Vầng trăng 16” không ít lần”ngả lòng” anh phải vịn câu thơ mà đứng dậy ( Thơ Phùng Quán), song ta vẩn thấy toát lên cái lạc quan nhi nhiên của tác giả: “ Ông nông dân thi sỹ.
Ngồi viết bài thơ tình
Chữ sặc mùi rơm rạ
Mà sao hồn long lanh.”
Như thể ta thấy tác giả không dụng công làm thơ vì thiên nhiên đã là thơ rồi:
 “Sẳn bài ca chim hót
  Sẳn làn hương hoa ngát
 Sẳn niềm yêu tôi khóc
 Và thế giới đăng trình”
Đôi khi ta có cảm giác Cao Xuyên lấy thơ ra từ túi áo ngực trái, hoặc lấy ra tự đất trời không chút dụng công:” Những đốm lữa trên cành
   Hoa lựu gởi về anh
  Ồ chùm thơ nắng Hạ
  Thơm thảo chút duyên lành.”
Hoặc:
            “ Cành khô trắng cánh cò
Chiều sông lạnh câu hò
Bác tiều phu xuống núi
Thế là thành thơ cho.”
Và ở đây ta thấy được một nông thôn Việt Nam dầy tính ảnh viện và tính thơ:
“Sương lưng lưng bờ dậu
Chiều tàn trên đọt cau
Dáng gầy cô thôn nữ
-về muộn tóc cài sao”, thật là một khuôn hình đẹp và sang trọng biết bao, một khuôn hình mà nhà chụp ảnh nào cũng ao ước. Từ ngạc nhiên này đến cái dễ thương khác…nhưng cũng rất “triệt nghĩa” Thiền: “ Quì gối giữa Phật đường
Lạy Ông Phật dễ thương
Như ngàn năm vẩn lạy,
Mùi hoa cau trong vườn.”. Với người thơ, ông Phật – Vị Đạo sư tót vời của cõi Trời cõi Người ( Theo thế giới quan Phật giáo) kia thực sự là vị cha lành chung bốn loại ( Hóa sanh, thai sanh, noãn sanh và thấp sanh)…và đức Phật gần gũi biết bao nhiêu, tự nhiên như mùi hoa cau trong vườn, tác giả đã vượt qua biên kiến tôn giáo, ý thức hệ…:
“ Em là con Thiên Chúa
Anh là con Phật Đà
Mình kết hôn đi nhé
Phật-Chúa thành sui gia.”, cũng ở đây mỗi người gặp lại chính mình trong thơ Cao Xuyên hình ảnh thân thuộc xưa cũ và thoáng chút đạo vị:
“ Ngồi đóng đinh quán cũ
Phố phơi đầy xác Thu
Guốc phơi dòn kỹ niệm
Thoáng ba ngàn kỳ khu”
                                  Hoặc:
“Tiền kiếp nào xa xuôi
  Em về trả nợ tôi
  Cái nợ tình lắt léo
 Trả là vay mất rồi.”
Như bao nhiêu người Thơ khác, Cao xuyên cũng dành một thời lượng lớn cho lao động thơ, suy tư thơ về tình yêu lứa đôi, thoạt đọc ta sẽ bật cười cho sự dối trá đáng yêu này”
“ Chẳng có ai thất tình
 Tình yêu làm sao mất “
Và Cao Xuyên lại tự dỗ dành mình:
“Nó ẩn trong tim mình
Để nuôi bền nhịp đập”. Mà đúng vậy những thứ người đời cho là “được” và “mất” đó chỉ là sự đắp đổi và tình yêu chân thành sẽ lặn sâu vào tim mình làm cho ta vững vàng hơn, nuôi bền trong ta tình yêu cuộc sống…
Ở một góc khác chúng ta gặp trong thơ Cao Xuyên sự bùng cháy thôi thúc còn ẩn chứa trong trái tim mình câu hỏi:- Ta về đâu?!
“ Hai mươi năm đất cũ
 Chìm trong chuyện đời thường
Thoáng EM về một tối
Bỗng thấy mình- Tha hương”, đại từ EM ở đây là một thứ Double code rất thú vị… Tuy nhiên ta thấy tác giả cũng điêu linh như bao đôi lứa khác”
“ Hạt lệ thằng chăn trâu
Rơi xuống thành mưa ngâu
Giờ đã là tháng bảy
Mưa đầy trời – Em đâu?”
Hoặc:
         “ Có cơn mưa trái mùa
Rạc rài qua phố nhỏ
Có cuộc tình trái gió
Khiến lòng ai trở trời”
Hay:
“ Cô sơn nữ vai gầy
 Gùi sương hồng xuống phố
 Má cô tương ánh hồng
             Sõi ven đường nín thở”
 Sõi bên dường nín thở hay người thơ nín thở ?.
Qua 81 bài thơ, tác giả đặc biệt dành sự cảm thông và kính trọng cho những “mẫu thân”-(chữ của thi sỹ Bùi Giáng). Người phụ nữ qua thơ anh là sự kính trọng, trân trọng, cảm thông và yêu thương…, những người ấy là Mẹ, là Chị, là Vợ, là người yêu, là những người Em  mà Cao Xuyên thương yêu quí trọng thật lòng chứ không phải chỉ bằng khẩu hiệu của những ngày lể về phụ nữ. Tác giả thấu thị được sự yêu thương vô bờ của những người Mẹ Việt Nam đầy thương kính trong tình tự dân tộc không biên kiến về ý thức hệ qua cuộc chiến tranh:
“ Ngoài kia chiều tím ngắt
 Mẹ thắp hương bàn thờ
Đứa nón sắt – nón cối
Thêm một ngày bơ vơ.” Mẹ lại một lần nữa lo cho linh hồn những đứa con của mình bơ vơ, mà không biết là chính mình đang bơ vơ vì những đứa con của 2 chiến tuyến đã  mất đi vì chiến tranh…và Cao Xuyên cũng cho chúng ta thấy cái vỹ đại của Mẹ ở một góc khác:
“ Chỉ một túp chùa cỏ
Đuốc Tuệ làm linh thiêng
Chỉ một vành nôi nhỏ
MẸ cho con Thiên đường.”. Ôi! Với tình yêu rộng lớn, Mẹ trở thành người có pháp thuật và quyền thuật dễ thương…
Thuở còn nằm nôi ( dụng cụ bằng tre này đã mất dần trong thế kỷ 21) ai trong chúng ta không nghe câu ca Mẹ hát: “ Đói lòng ăn nữa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương…”và hình ảnh này lại một lần nữa Cao Xuyên đã đưa chúng ta tới một khung trời thật cảm động khiến ta nín thở vì xúc động bởi sự chân thành:
“ Lại về đồi sim cũ
Nữa trái cho no thèm
Nữa trái đặt lên mộ
Dâng hồn em khôn thiêng” Ở đây ta thấy bóng dáng của nhà thơ Hữu Loan, với đồi sim cũ và người vợ vắn số..có thể Cao Xuyên thay lời Hữu Loan chăng…?
Lẫn trong những xúc cảm lãng mạng, ta còn nhận thấy ý thức công dân hay ý thức của một “ sỹ phu” trong tác giả: nhất là với những những cuộc đời luân lạc bất hạnh, Cao Xuyên dành cho họ sự cảm thông rất mực:
“ Lấy Hiếu để làm trinh
 Kiều ơi! Em đã chọn
Mười lăm năm điêu linh
Đóa ưu đàm nở rạng”
 ( Theo truyền thuyết Phật Giáo: hoa Ưu đàm ba ngàn năm mới nở một lần)
Và:
“ Nguyễn Du đưa em về
Em bây giờ rất Việt
Lấp lánh hồn sao Khuê…”
Hoặc người phụ nữ ở bến Tầm Dương của xứ Trung Hoa xưa cũ kia:
“ Trong thinh lặng hồn mình
  Bỗng cồn lên tiếng sóng
 Tiếng xé lụa Tầm Dương
 Nghìn xưa còn đồng vọng”
Hay những thân phận hồng nhan đa truân ở thế kỹ 21 của xứ sở mình:
“ Vứt em vào luân lạc
 Chưa kịp dấu yêu đầu
 Thương cỏ đồng hoa nội
Son phấn- hãi hùng đau…”
Xuyên suốt 81 bài thơ, một pháp số mà có lẽ tác giả đã dụng công không ít…ta còn thấy hình ảnh hoa cau như một loại quốc hoa tượng trưng cho sự gắn kết thủy chung thân thuôc với đại đa số người Việt Nam mà anh hay nhắc tới: “Như ngàn năm vẩn lạy. Mùi hoa cau trong vườn.” hay “ Chiều tàn trên đọt cau…”. Đây có lẽ là một ám ảnh lớn của tác giả?.
Cổ kim hình như các tác giả lớn thường cố gắng chỉ ra cái “thường” và “ vô thường” của nhân sinh, theo như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì: - Nghệ thuật nào cũng vậy, nó sẽ chẳng là gì nếu nó không góp phần truyền đến con người ta sự sống đang sôi động ngoài kia về cái “đang là” buộc họ tìm đến ý nghĩa của cuộc sống đang sôi động đó, để xác định vị trí của mình và bật lên câu hỏi: “ Ta là ai?...
 Qua : Từ vầng  trăng mười sáu dù là tụng ca, bi ca, hay bình ca…ta đều thấy mầm sống mạnh mẽ nhú lên từ cay nghiệt cuộc đời, và về đâu? Luôn ẩn chứa giữa 2 giòng chữ::
“ Khô lạnh như ngọn giáo
Tháp chàm vươn lên trời
Hồn chàm vươn đá sõi
Hoa xương rồng nở tươi”
Hoặc:
“ Tiền kiếp nào xa xuôi
   Em về trả nợ tôi
  Cái nợ tình lắt léo
Trả là vay mất rồi”
Và:
       “ Kẻ đến còn ngập ngừng
        Người đi chừng tiếc nuối
       Tình chia ngã ba sông
       Con đò nào chết đuối”
Hay:
“Từ tiếng khóc chào đời
  Đến nấm mộ im hơi
  Ba vạn sáu dâu biển
 Thơ mãi là thơ thôi”
Thơ chỉ mãi là thơ thôi, và chúng ta cứ đuổi mãi đến vô cùng…có chăng …mua vui cũng được một vài trống canh( Kiều-Nguyễn Du). Tác giả lại dùng đại từ ngôi thứ hai: EM để xâu chuỗi suy tư mình :           “Lệ nồng mặn em ơi!
       Đêm đêm lần tràng lệ
      Tụng câu thơ nụ cười
Và sẽ chẳng là gì nếu như sự tận hiến của người thơ không xao động một chút trên mặt hồ yên lặng của sự kiêu ngạo và vô tâm:
        “Coi như là trớt quớt
       Bài thơ viết bao đêm
      Bao lửa lòng đã đốt
                              Chẳng nhen hồng má em.”
Với góc nhìn của một độc giả “sính” thơ, ghi ra vài cảm nhận, dù sai dù đúng thì cũng là tấc lòng dù tấc lòng cạn cợt không thấu đáo bao nhiêu sự đời, sự người, sự thơ…! Xin cám ơn tác giả đã cho tôi được đọc một tập thơ  gợi mở nhiều chiều kích cuộc sống và sang trọng
( không phải sang trọng về hình thức)
Tân thành, Trọng Xuân Nhâm Thìn 2012
        NGUYỄN VĂN BIÊN



* Tập thơ TỪ VẦNG TRĂNG MƯỜI SÁU – Cao Xuyên NXB Thanh niên 2012





Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012


Socrates và ba nguyên tắc

Socrates là nhà hiền triết thời cổ Hy lạp, có rất nhiều môn đệ, ông ta nổi tiếng thời xưa vì những lý-luận, triết-giải các vấn đề khó khăn trong cuộc sống của người đương thời, qua quan niệm nhân sinh và vũ-trụ của ông ta.

Một hôm để tìm hiểu thiên nhiên, ông ta dẫn đám đệ tử đi dọc theo con đường làng. Từ xa ông ta nghe có tiếng gọi tên ông vọng lại văng vẳng. Ngạc nghiên, ông ta dừng lại và chờ đợi …và quả thật, một người dân làng đang chạy lại …, rồi dừng lại trước mặt Socrates thở hổn-hển, và bảo là muốn nói với ông ta một câu chuyện.

Socrates : “Để kể lại một câu chuyện, cần theo đúng ba nguyên tắc”.
Người nông dân : “trước giờ tui đâu có biết, mà là 3 nguyên tắc gì ??? “
Socrates : “Nguyên tắc thứ nhất, có chính mắt anh thấy nó không???”
Suy nghĩ một hồi, anh nông dân đưa tay lên gãi tai: “ Không !!! tui không chính mắt thấy chuyện đó“.

Socrates: “À há!! Theo nguyên tắc thứ hai là, câu chuyện anh sắp nói, có lợi gì cho người nghe hay không??? “
Suy nghĩ một lát , anh nông dân nói : “Không , tui thấy không có lợi gì cho người nghe“.

Socrates: “ Câu chuyện anh sắp nói, không chính mắt anh thấy, không có lợi cho người nghe, vậy nguyên tắc cuối cùng thứ ba là “nó có lợi gì cho người nói hay không??? “.
Anh nông dân: “Không !!! nó cũng chẳng có lợi gì cho tui“.

Socrates: “Câu chuyện anh sắp nói, vi phạm ba nguyên tắc là: không chính mắt anh thấy, không có lợi cho người nghe, cũng không có lợi cho người nói, vậy anh không nên nói “.

Nghe giảng giải xong, các đồ đệ hết lời khen ngợi thầy mình đã đặt để ra ba nguyên tắc cho mọi câu chuyện. Anh nông dân thì mặt buồn rầu lủi thủi đi về làng, riêng Socrates không bao giờ được biết là vợ ông ngoại tình với người bạn, bị vợ anh nông dân bắt gặp.

Sưu tầm trên Internet.

Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

Lại đọc được một bài hay xin chia sẻ cùng các bạn 


Bố bảo con trai trước khi lấy Vợ...
Bố bảo lúc giận có thể cãi nhau nhưng đừng thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Cãi nhau không có nghĩa con dùng những lời lẽ xúc phạm dành cho người mà con sẽ đầu gối tay ấp cả cuộc đời . Cãi nhau có nghĩa là nói hết những gì trong lòng để 2 Vợ Chồng con hiễu lẫn nhau, thông cảm
cho nhau, xóa đi hết mỏi hiểu lầm. Bản thân con còn chẳng hiểu được con, thế nên đừng mong người khác
phải hiểu con khi con cứ giữ trong lòng. 

Bố bảo cãi nhau với phụ nữ thì đừng có nói nhiều. Chỉ cần nói vừa đủ. Độ khuếch tán âm thanh của đàn ông chẳng bao giờ bằng phụ nữ. Một người vợ chân chính sẽ đủ tinh tế để biết khi nào cần nói, lúc nào nên im lặng – ngay cả trong khi nóng giận nhất.

Bố bảo nhìn vào chiếc giường là biết cuộc sống vợ chồng có hạnh phúc hay không. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, đừng mang chăn gối ra sofa ngủ, cũng đừng quay lưng vào người vợ của con, hãy ôm cô ấy vào bờ vai và khuôn ngực nóng hổi của con. Tất cả sẽ qua đi, chỉ tình yêu còn lại. 

Bố bảo dù ở ngoài XH, con có là xe ôm, hay ông lớn, ông bé, thì về nhà con vẫn là trụ cột của gia đình. Vợ con có thể là người phụ nữ rất đảm đang, cô ấy có thể đóng đinh, sửa ống nước hay tháo quạt trần, nhưng hãy làm việc đó – trừ khi con quá bận. Nó vừa thể hiện sự công bằng, vừa thể hiện sự chia sẻ vợ chồng. 

Bố bảo sau khi kết hôn sẽ hơn một lần con cảm thấy hối hận, thậm chí có mối quan hệ ngoài chồng ngoài vợ. Mỗi lần như vậy con hãy nhớ rằng : Người bồ hiện tại yêu con mười phần,người vợ hiện tại cũng đã từng yêu con mười phần,nhưng khi bước vào
hôn nhân, vai trò của phụ nữ càng trở nên phức tạp hơn, ngoài tình yêu họ còn có cả trách nhiệm. Vì vậy khi đã kết hôn, người ta sẽ không thể yêu con mười phần được nữa. Họ phải dành một phần trong số đó để yêu bố mẹ chồng,rồi lại một phần để yêu bố mẹ họ, còn thêm một phần nữa cho con cái. Và như thế, mười phần tình yêu khi bước qua hôn nhân chỉ còn lại bảy phần. Bằng cách này hay cách khác, 3 phần con mất đi từ người vợ sẽ được nhận lại gấp đôi từ gia đình và con cái của con. Và một lí do nữa, người bồ sẽ chỉ đem lại cho con hạnh phúc nhất thời, còn người vợ sẽ đem lại cho con hạnh phúc bền vững. Thật tuyệt vời phải không? 
Bố bảo thời kì mang thai là thời kì khó khăn nhất đối với người phụ nữ. Là bởi vì muốn có được thiên thần thì phải qua thời gian khổ cực. Chính vợ con là người đã gánh vác sự khổ cực đó để đem lại niềm vui cho cả nhà. Thế nên đừng thở dài khi thấy vợ con chẳng còn được vẻ đẹp thời thiếu nữ, hay cũng đừng tức giận khi con nằm cạnh vợ mà chẳng thể làm gì. Hãy cùng cô ấy cảm nhận niềm vui của những ông bố bà mẹ, chắc sẽ thú vị lắm. 

Bố bảo chuyện mẹ chồng nàng dâu là chuyện muôn thuở,giống như bệnh tiền mãn kinh vậy. Thế nên con hãy là sợi dây kêt nối họ – hai người phụ nữ yêu con nhất trên đời.Đừng để mẹ cảm thấy bà đã mất con trai, và vợ con cảm thấy chồng mình là người nhu nhược. Như thế mới là đàn ông chân chính.
Bố bảo rằng đừng tưởng người mẹ mới dạy dỗ được con.Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, trong thời gian người mẹ mang thai thì người cha mới là người ảnh hưởng lớn nhất đến tình cảm và sự phát triển của trẻ. Con có thể không là người bố tuyệt vời nhất thế giới, nhưng hãy là người bố tuyệt vời nhất trong lòng những đứa con.

Bố bảo ” Phụ nữ là để yêu, không phải để hiểu”.Nhưng nếu không hiểu, thì con chẳng thế yêu. Hãy hiểu họ bằng chính trái tim mộc mạc của con. 

Bố bảo ” quá khứ là thứ đã qua, hiện tại mới là cuộc sống”. Nếu quá khứ của vợ con có lỗi lầm, đừng chấp nhặt, cũng đừng đay nghiến, vì đồng ý lấy vợ, là con đã chấp nhận tất cả những gì thuộc về cô ấy. Hãy khoan dung và độ lượng. Dù không nói ra nhưng chắc chắn, cô ấy sẽ yêu con đến suốt cuộc đời – một tình yêu bao gồm cả sự biết ơn và tôn trọng. 

Và cuối cùng bố bảo, cuộc sống luôn thay đổi, hãy biết trân trọng từng ngày
BĐH sưu tầm

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012


Xin chia sẻ cùng các bạn một bài viết mình vừa copyy được trên net. Rất nên đọc ...
Lời dặn dò của cha dành cho con gái
Một người không tốt với con, con không nên quá bận tâm. Trong cuộc sống của con, không ai phải có nghĩa vụ đối tốt với con trừ cha mẹ. Còn với những người tốt với con, con nên trân trọng và biết ơn điều đó. Nhưng con cũng cần phải có chút đề phòng bởi mỗi người khi làm bất cứ việc gì đều có mục đích riêng. Hãy nhớ, họ tốt với con không đồng nghĩa với việc họ phải quý mến con.

Không có ai là không thể thay thế, không có vật gì thuộc hoàn toàn sở hữu của con. Vì thế, nếu sau này người con yêu thương không còn ở bên, hay họ không còn là nơi con có thể đặt niềm tin, con cũng đừng bi lụy. Sinh mệnh con người thực sự ngắn ngủi, con đừng để mỗi ngày trôi đi vô ích. Người ta tham vọng sống lâu nhưng con chỉ cần sống hạnh phúc mỗi ngày. Hãy trân trong và yêu lấy cuộc sống hiện tại của con.

Trên đời này không có gì là nhất cả, tình yêu chỉ là cảm giác bất chợt đi qua cuộc đời con, nhưng nó sẽ theo thời gian và lòng người mà thay đổi. Nếu như người đó rời xa con, con hãy học cách chờ đợi. Hãy để thời gian rửa sạch vết thương, để tâm hồn con lắng lại rồi nỗi đau của con cũng sẽ dần biến mất. Con đừng mơ ước một tình yêu hoàn hảo, cũng đừng thổi phồng nỗi đau khi nó không còn.
Có những người thành đạt mà không cần trải qua nhiều trường lớp, nhưng điều đó không có nghĩa con thôi nỗ lực học tập. Kiến thức con học được chính là vũ khí con cần có, hãy nhớ người ta không thể làm gì nếu họ chỉ có tay không.

Con không nhất thiết phải chăm sóc cha nửa cuộc đời còn lại và cha cũng thế. Khi trưởng thành, con có thể tự mình bước đi, trách nhiệm của cha cũng đã kết thúc. Sau này dù con hạnh phúc hay buồn đau, con đều phải tự mình lựa chọn và có trách nhiệm với nó.
Con có thể bắt mình phải giữ chữ tín, nhưng không thể yêu cầu người khác làm thế với mình. Con có thể yêu cầu bản thân phải đối đãi tốt với người, nhưng con không thể kì vọng người ta sẽ làm ngược lại. Khi con tốt với họ, họ không có nghĩa vụ phải tốt lại với con. Hãy nhớ điều này nếu không con sẽ luôn gặp ưu phiền trong cuộc sống.

Cha đã mua vé số trong 26 năm thế nhưng chưa một lần trúng, điều đó nói lên rằng muốn giàu có phải dựa vào nỗ lực làm việc của bản thân, trên đời này không có bữa ăn nào là miễn phí cả.

Chỉ những ai có duyên phận mới trở thành người thân của nhau,cho dù trong cuộc sống bận rộn con ít khi gặp mọi người, nhưng con hãy trân trọng từng khoảnh khắc khi còn bên họ, hãy dành cho họ thời gian để yêu thương con hơn, và hãy gọi điện cho mẹ con.

Sưu tầm bởi Mai Quý Lực